Những đứa con của nửa đêm
Phan_49
Indira Gandhi sinh ngày 19 tháng Mười một năm 1917, con gái của Kamala và Jawaharlal Nehru. Tên đệm là Priyadarshini. Bà không có họ hàng với “Mahatma” M.K. Gandhi; họ của bà là di sản từ cuộc hôn nhân, năm 1942; với một ông Feroze Gandhi, người được cả nước coi như “phò mã”. Họ có hai con trai, Rajiv và Sanjay, nhưng năm 1949 bà dọn về nhà cha mình và trở thành “nữ chủ nhân” ở đây. Feroze cũng thử sống ở đó một lần, nhưng không thành công, ông trở thành người phê phán gay gắt Chính quyền Nehru và phanh phui vụ tai tiếng Mundhra, buộc chính Bộ trưởng Tài chính hồi đấy, T.T. Krishnamachari - tức T.T.K. phải từ chức. Feroze Gandhi mất vì nhồi máu cơ tim năm 1960, thọ bốn mươi bảy tuổi. Sanjay Gandhi và vợ, cựu người mẫu Meneka, là hai nhân vật nổi bật trong Thời kỳ Khẩn cấp. Phong trào Thanh niên Sanjay đặc biệt phát huy hiệu quả trong chiến dịch triệt sản.
Tôi đưa vào bản tiểu sử có phần sơ lược này để phòng khi quý vị chưa nhận ra Thủ tướng Ấn Độ, đến năm 1975, đã mười lăm năm là một góa phụ. Hay (bởi ở đây chữ hoa sẽ có tác dụng): một Góa phụ.
Phải, Padma, Mẹ Indira thực sự có mưu đồ hãm hại tôi.
Chương 29: Nửa đêm
Không! - Nhưng tôi phải.
Tồi không muốn kể! - Nhưng tôi đã thề sẽ kể hết - Không, tôi rút lại, chuyện này thì không, chắc chắn là có những chuyện không kể thì tốt hơn...? - Vớ vẩn; cái gì không chữa được thì phải chịu! - Nhưng chắc là không phải chuyện những bức tường thì thầm, và phản bội, và xoẹt xoẹt, và những người đàn bà ngực bầm chứ? - Đặc biệt là những chuyện đó. - Nhưng sao tôi có thể, nhìn tôi đi, tôi đang giằng xé, không thể nhất trí với bản thân, độc thoại, lý luận như một thằng điên, suy sụp, ký ức tiêu vong, phải, ký ức lao xuống vực thẳm và bị bóng tối nuốt chửng, chỉ còn lại những mảnh vụn, chẳng đâu vào đâu nữa cả! - Nhưng tôi không được tự cho mình quyền phán xét; mà phải cứ thế tiếp tục (sau khi đã bắt đầu) đến hết; có-nghĩa-hay-vô-nghĩa không còn (có lẽ chưa bao giờ) thuộc quyền đánh giá của tôi. - Nhưng nỗi kinh hoàng của điều đó, tôi không thể không muốn không được không đành không chịu không! - Thôi ngay; bắt đầu đi. - Không! - Có.
Thôi thì, về giấc mơ? Tôi có thể kể nó như một giấc mơ. Phải, có lẽ như một ác mộng: xanh và đen và tóc mụ Góa phụ và bàn tay siết lại và lũ trẻ ú ớ và những trái bóng nhỏ và từng-đứa-một và xé-làm-đôi và những trái bóng bay lên bay lên xanh và đen tay mụ xanh móng tay mụ đen thật đen. - Không mơ mộng gì cả. Giờ không phải nơi phải lúc. Sự thật, nhớ sao kể vậy. Cố gắng hết khả nảng. Đúng như thực tế: Bắt đầu đi. - Không có lựa chọn hả? - Không; đã bao giờ có đâu? Mệnh lệnh thì có; những hệ quả logic, những sự tất yếu, những sự tái diễn chì có; những điều-họ-gây-ra-cho-ta, những tai biến, những cưỡng-bách-của-số-phận thì có; nhưng đã bao giờ có lựa chọn? Có cái để cân nhắc? Có quyền tự do quyết định, trở thành cái này hay cái kia hay cái khác? Không có đâu; bắt đầu đi. - Vâng.
Nghe đây:
Những đêm ngày tuần tháng bất tận vắng bóng mặt trời, hay đúng hơn (bởi vì chính xác là quan trọng) dưới bóng một mặt trời lạnh giá như đĩa ngâm trong lòng suối, phủ lên chúng tôi một thứ ánh sáng nửa đêm điên loạn[1]; tôi đang nói tới mùa đông 1975-76. Cùng với mùa đông, là bóng tối; và bệnh lao.
[1] Nguyên văn: lunatic, có nghĩa là điên loạn, nhưng cũng có thể hiểu là thuộc về mặt trăng.
Có lần, trong căn phòng xanh dương nhìn ra biển, dưới ngón tay đang chỉ của một ngư phủ, tôi đã chiến đấu chống bệnh thương hàn, và được nọc rắn cứu mạng; giờ đây, bị mắc vào mạng nhện hoàng tộc của sự tái diễn do tôi đã nhận nó làm con trai, Aadam Sinai của chúng tôi cũng phải chiến đấu suốt những tháng đầu đời với đàn rắn vô hình của một căn bệnh. Bầy độc xà của lao phổi quấn quanh cổ thằng bé và làm nó thở rất khó nhọc... nhưng nó là đứa trẻ của tai và sự lặng lẽ, khi nó khục khặc, không một âm thanh; khi nó hổn hển, không tiếng khò khử nào phát ra từ cổ họng. Tóm lại, con trai tôi ngã bệnh, và mặc dù mẹ nó, Parvati tức Laylah, bổ đi tìm những thảo dược thần kỳ bí truyền của em - mặc dù chúng tôi sắc thuốc và cho nó uống liên tục; bầy sâu quỷ hồn của bệnh lao nhất định không bị xua đi. Tôi đã nghi ngờ, ngay từ đầu, có một ẩn dụ đen tối ở căn bệnh này - tôi tin rằng, trong những tháng nửa đêm ấy, khi thời kỳ của mối-liên-hệ-với-lịch-sử của tôi giao thoa với của nó, tình trạng khẩn cấp của riêng cha con tôi không phải không liên quan đến căn bệnh lớn hơn, của thế giới vĩ mô, làm mặt trời cũng xanh xao, ốm yếu như con trai chúng tôi. Parvati-hồi-đó (cũng như Padma-bây-giờ) bác bỏ những phán đoán trừu tượng này, quy kết tôi là hoàn toàn điên rồ khi ngày càng bị ám ảnh với ánh sáng, đến nỗi bắt đầu đốt những đĩa đèn dia nhỏ trong túp lều bệnh tật của con tôi, thắp sáng căn lều bằng ánh nến khi đang chính ngọ... nhưng tôi vẫn tin rằng chẩn đoán của mình là chính xác; “Anh bảo thật,” tối quả quyết, “chừng nào Tình trạng Khẩn cấp chưa kết thúc, nó sẽ không bao giờ khỏe lại.”
Quẫn trí vì bất lực trong việc chữa bệnh cho đứa trẻ lầm lì không bao giờ khóc ấy, Parvati-Laylah nhất định không tin giả thiết bi quan này của tôi; nhưng em lại dễ lung lạc trước mọi ý tưởng kỳ cục khác. Khi một trong mấy bà già trong trại bảo em – điều Resham Bibi chắc cũng sẽ làm – rằng bệnh sẽ không lui chừng nào thằng bé còn câm, Parvati hình như cũng thấy hợp lý. “Bệnh tật là nỗi đau về thể xác,” em lên lớp tôi, “nó phải được rũ bỏ bằng cách khóc than.” Đêm đó, em trở về lều mang theo một nắm bột màu xanh, gói trong giấy báo và buộc một sợi dây hồng nhạt, rồi bảo tôi rằng đây là một phương thuốc công hiệu đến mức đá cũng phải hét lên. Khi uống thuốc vào, má thằng bé bắt đầu phồng lên, như thể mồm nó đầy thức ăn; những âm thanh bị đè nén bấy lâu của thời thơ ấu trào lên sau môi nó, và nó ngậm chặt miệng trong một niềm phẫn nộ. Tôi thấy rõ là đứa bé gần như bị nghẹn khi cố nuốt ngược trở vào dòng thác nôn mửa của những âm thanh bị dồn nén mà thứ bột xanh đã khuấy lên; và đây là lúc hai chúng tôi nhận ra, mình đang đối diện với một trong những ý chí bất khuất nhất thế gian. Sau một giờ đồng hồ con trai tôi hết ngả sang màu nghệ đến nghệ-và-xanh, và cuối cùng là màu cỏ, tôi không thể chịu đựng thêm nữa liền gầm lên, “Đồ đàn bà, nếu thằng bé đã muốn im lặng đến thế, ta không thể vì vậy mà hại chết nó!” Tôi bồng Aadam lên để ru nó, và cảm thấy thân hình bé nhỏ ấy cứng đờ ra, đầu gối khuỷu tay cổ nó đầy ứ cơn lũ bị kìm nén của những âm thanh không được diễn đạt thành lời, và cuối cùng Parvati phải mủi lòng liền chuẩn bị thuốc giải bằng cách nghiền củ hoàng tinh và cam cúc trong bát nhôm, đồng thời khe khẽ lầm rầm những lời nguyền kỳ quái. Sau lần đó, không một ai cố ép Aadam Sinai làm bất cứ điều gì nó không muốn nữa; chúng tôi nhìn nó chiến đấu chống lại bệnh lao vì cố tự trấn an mình bằng suy nghĩ rằng một ý chí sắt đá dường ấy thì sẽ quyết không chịu thua bất kỳ căn bệnh tầm thường nào.
Trong những ngày sau cùng ấy nội tâm của Laylah hay Parvati vợ tôi còn bị lũ ngài của niềm tuyệt vọng gặm nhấm, vì khi em đến bên tôi để tìm sự an ủi hoặc hơi ấm trong sự riêng tư của giấc ngủ ban đêm, tôi vẫn thấy diện mạo bị ăn mòn khủng khiếp của Jamila Ca sĩ chồng lên gương mặt em; và mặc dù tôi đã thú nhận với em bí mật về hồn ma này, an ủi em rằng với tốc độ thối rữa hiện thời thì không bao lâu nữa nó sẽ hoàn toàn tiêu tan, em chỉ buồn thảm bảo tôi rằng ống nhổ và chiến tranh đã làm tôi nhũn não, và làm em tuyệt vọng bằng cuộc hôn nhân mà với hiện trạng này sẽ không bao giờ có đêm động phòng; dần dà, dần dà trên môi em hiện ra cái bĩu bất tường của niềm đau khổ... nhưng tôi làm được gì? Tôi có gì để an ủi em? - tôi, Saleem Thò lò, kẻ đã rơi vào cảnh khốn cùng sau khi mất đi sự bảo trợ của gia đình, kẻ đã chọn (nếu đây được coi là lựa chọn) sinh nhai bằng tài năng khứu giác, kiếm vài paisa một ngày bằng cách đánh hơi xem người khác ăn gì tối qua và ai trong số họ đang yêu; tôi biết vỗ vễ em bằng gì, khi bản thân tôi đã nằm trong nắm tay buốt giá của nửa đêm dằng dặc ấy, và đã ngửi thấy trong không khí mùi của cáo chung?
Mũi của Saleem (chắc quý vị chưa quên) có thể ngửi thấy nhiều thứ kỳ lạ hơn là cứt ngựa. Hương của cảm xúc và ý tưởng, mùi của sự-vật-như-thế-nào: tất cả đã và đang được tôi đánh hơi một cách dễ dàng. Khi Hiến pháp được sửa đổi nhằm dành cho Thủ tướng quyền lực gần-như-tuyệt-đối, tôi ngửi thấy hồn ma của các đế quốc cổ đại trong không khí... ở một thành phố lúc nhúc bóng ma của các Vua Nô lệ, các Mughal, của bạo chúa Aurangzeb và của những kẻ chinh phục cuối cùng, da hồng, tôi một lần nữa hít vào mùi gay gắt của tư tưởng độc tài. Nó có mùi giống giẻ rách dính dầu đang cháy.
Nhưng ngay cả những người kém về khứu giác cũng có thể nhận ra rằng, mùa đông 1975-76, có gì đó bốc mùi thối rữa ở thủ đô; điều làm tôi lo sợ là một mùi hôi khác, riêng tư hơn: hơi hướm của một nguy hiểm cá nhân, mà trong đấy tôi nhận ra bóng dáng một cặp đầu gối phản phúc, báo thù... dự cảm đầu tiên của tôi rằng một mâu thuẫn xa xưa, bắt đầu từ khi một cô gái đồng trinh điên tình đánh tráo thẻ tên, sắp sửa kết thúc trong một cơn hoảng loạn của phản bội và cắt xoẹt.
Đáng lẽ, khi một cảnh báo như vậy nhói lên trong mũi, tôi nên bỏ chạy - được cái mũi phím trước, tôi đã có thể đào tẩu. Nhưng thực tế lại đặt ra một số trở ngại: tôi sẽ đi đâu? Rồi, vợ bìu con ríu, làm sao tôi đi nhanh được? Và chớ nên quên rằng tôi đã từng bỏ chạy một lần, và thử xem tôi lạc đến đâu: Sundarbans, cánh rừng của hồn ma và báo ứng, nơi tôi đã thoát nạn chỉ trong gang tấc!... Dầu gì đi nữa, tôi đã không chạy.
Chạy hay không có lẽ cũng thế thôi; Shiva - không khoan dung, phản phúc, kẻ thù của tôi từ khi ra đời - cuối cùng cũng sẽ tìm ra tôi. Bởi mặc dù cái mũi có công dụng vô song là đánh-hơi-ra-mọi-thứ, đến khi lâm trận không ai phủ nhận được ưu thế của một cặp đầu gối có thể siết chặt và bóp nghẹt.
Tôi sẽ cho phép mình đưa ra một nhận xét cuối cùng, tự mâu thuẫn về vấn đề này: nếu, như tôi vẫn hằng tin, ngôi nhà của những phụ nữ khóc than là nơi tôi biết được đáp án cho câu hỏi về mục đích đã dằn vặt tôi suốt đời, thì nếu tự cứu mình thoát khỏi cung điện của diệt vong ấy, tôi cũng sẽ tự tước bỏ cơ hội thực hiện khám phá quý báu bậc nhất này. Nói một cách hơi triết lý: trong cái rủi có cái may.
Saleem-và-Shiva, mũi-và-đầu-gối... chúng tôi chỉ có ba điểm chung: thời khắc (và hệ quả của việc) chúng tôi ra đời; tội phản bội; và đứa con trai, Aadam, hợp thể của chúng tôi, lầm lì, không cười, có đôi tai nghe khắp mười phương. Aadam Sinai, trên nhiều khía cạnh, chính là bản thể đối lập của Saleem. Tôi, buổi ban đầu, lớn lên với tốc độ chóng mặt; Aadam, vật lộn với đàn rắn của bệnh tật, hầu như chẳng lớn được chút nào. Saleem ngay từ đầu đã nở nụ cười cầu tài; Aadam tự trọng hơn, giữ nụ cười lại cho chính mình. Trong khi Saleem khuất phục ý chí của mình dưới ách đồng thống trị của gia đình và vận mệnh, Aadam chiến đấu dũng mãnh, kiên quyết không lùi bước, kể cả trước ách áp bức của thứ bột xanh. Và trong khi Saleem quyết tâm tiếp nhận cả vũ trụ đến nỗi, có một thời kỳ, nó không thế chớp mất, Aadam lại muốn nhắm chặt mắt lại... mặc dù, thi thoảng, khi nó hạ cố mở mắt ra, tôi mới thấy màu của chúng, màu xanh. Xanh-như-băng, sắc xanh của sự tái diễn, sắc xanh định mệnh của bầu trời Kashmir... nhưng không cần diễn giải thêm nữa.
Chúng tôi, những đứa trẻ của Độc lập, điên cuồng và quá vội vã lao đến tương lai; nó, sinh giữa thời Khẩn cấp, đã và sẽ thận trọng hơn, kiên nhẫn đợi thời; nhưng khi nó hành động, sẽ không ai cưỡng lại được. Ngay bây giờ, nó đã khỏe hơn, cứng rắn hơn và cương quyết hơn tôi: khi ngủ, cầu mắt nó bất động dưới mí mắt. Aadam Sinai, đứa con của đầu-gối-và-mũi, không (theo như tôi biết) đầu hàng trước những giấc mơ.
Bao nhiêu chuyện đã lọt vào đôi tai phấp phới, có những lúc như thể rực lên vì sức nóng của thông tin chúng thu nhận được ấy? Nếu nói được, liệu nó có cảnh báo tôi về sự phản bội và xe ủi đất? Ở một đất nước bị vô vàn âm thanh và mùi vị đồng ngự trị, chúng tôi đã có thể là cặp đôi hoàn hảo; nhưng con tôi từ chối nói chuyện, còn tôi không tuân theo mệnh lệnh của mũi mình.
“Arre baap,” Padma kêu lên, “Thì ông cứ kể xem có chuyện gì xảy ra nào! Con nít không nói chuyện thì có gì lạ đâu?”
Và một lần nữa sự giằng xé trong tôi: Tôi không thể. - Cậu phải. - Vâng.
Tháng Tư năm 1976 đến, và tôi vẫn sống ở khu trại hay ghetto của giới ảo thuật; con trai tôi Aadam vẫn mắc chứng lao mạn tính dường như không phản ứng trước bất kỳ hình thức điều trị nào. Đầu tôi đầy rẫy những dự cảm không lành (và ý nghĩ chạy trốn); nhưng nếu có một người là lý do tôi ở lại ghetto, thì người đó là Picture Singh.
Padma, Saleem quyết định cùng chung số phận với các ảo thuật gia Delhi một phần vì cảm thấy gã thuộc về nơi này - một niềm tin tự hành xác về sự chính đáng của việc gã trở nên nghèo khó một cách muộn màng (tôi mang theo, từ nhà cậu tôi, đúng hai tấm sơ mi, trắng, hai cái quần, cũng trắng, một áo phông, in hình đàn guitar màu hồng, và giày, một đôi, đen); tôi đến đây, một phần, bởi lòng trung thành, bị ràng buộc bởi những nút thắt của lòng biết ơn người giải cứu tôi, Parvati-phù-thủy; nhưng, tôi ở lại - trong khi, là một thanh niên có học vấn, ít ra tôi có thể làm thư ký ngân hàng hay thầy giáo trường đêm dạy đọc và viết - bởi vì, suốt đời mình, chủ ý hay vô thức, tôi luôn tìm kiếm những người cha. Ahmed Sinai, Hanif Aziz, Sharp-sticker sahib, Đại tướng Zulfikar, tất cả đều buộc phải đóng thế vai trò của William Methwold; Picture Singh là người cuối cùng trong danh sách cao quý này. Và có lẽ, trong sự khao khát song hành: tìm cha và cứu nước, tôi đã phóng đại Picture Singh (cũng như đã bóp méo anh lần nữa trên những trang viết này) thành một ảo-tượng-trong-mơ của trí tưởng tượng của tôi... thực tế là, mỗi khi tôi hỏi, “Chừng nào anh sẽ lãnh đạo chúng em, Pictureji - chừng nào ngày trọng đại ấy sẽ đến?”, anh gượng gạo thoái thác, nói, “Cậu bỏ ý nghĩ ấy đi, đội trưởng; anh chỉ là một gã nghèo quê ở Rajasthan, và Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian; đừng bắt anh làm gì khác.” Nhưng tôi, thúc giục anh, “Nhưng đã từng có tiền lệ - có Mian Abdullah, con Chim ngân nga...” Nghe vậy Picture, “Đội trưởng, cậu có những ý nghĩ kỳ khôi thật.”
Những tháng đầu ban hành Tình trạng Khẩn cấp, Picture Singh tiếp tục chìm trong một sự im lặng u ám gợi nhớ (một lần nữa) đến sự Vô thanh vĩ đại của Mẹ Bề trên (điều cũng đã rỉ sang con trai tôi...), chẳng buồn diễn thuyết cho khán giả trên đường to phố nhỏ của cả thành phố Cũ lẫn Mới, như trước đây anh nhất quyết làm bằng được; nhưng mặc dù anh nói, “Đây là lúc cần im lặng, đội trưởng,” tôi vẫn tin rằng một ngày nào đó, một buổi bình minh của thiên niên kỷ khi nửa đêm kết thúc, dẫn đầu một jooloo hay đoàn diễu hành khổng lồ của những người cùng khổ, và có lẽ vẫn thổi sáo và quấn rắn độc quanh người, chính Picture Singh sẽ dẫn dắt chúng tôi tới con đường sáng… nhưng có lẽ anh luôn chỉ là một người dụ rắn không hơn; tôi không phủ nhận khả năng ấy. Tôi chỉ nói rằng, với tôi, người cha cuối cùng này, cao gầy râu rậm, tóc buộc thành một búi sau gáy, dường như chính là hóa thân của Mian Abdullah; nhưng có lẽ tất cả chỉ là ảo tưởng, hình thành từ nỗ lực gắn anh với mạch truyện lịch sử của tôi hoàn toàn bằng sức mạnh của ý chí. Ảo tưởng đeo đuổi tôi suốt đời; đừng tưởng tôi không biết điều này. Tuy nhiên, trước mắt chúng ta là một thời điểm vượt ra ngoài mọi ảo tưởng; chẳng còn lựa chọn nào khác, rốt cuộc tôi sẽ phải ghi lại, trên giấy trắng mực đen, đoạn cao trào mà tôi đã né tránh cả tối nay.
Những mảnh ký ức: đấy không phải là cách viết xứng đáng với đoạn cao trào. Cao trào phải trào dâng tận đỉnh Hy Mã Lạp Sơn; nhưng trong tay tôi chỉ còn những mẩu vụn, buộc tôi phải cà nhắc dẫn đến bi kịch của mình như một con rối đứt dây. Việc này nằm ngoài kế hoạch của tôi; nhưng có lẽ câu chuyện ta kết thúc không bao giờ là câu chuyện ta bắt đầu. (Có lần, trong một căn phòng màu xanh, Ahmed Sinai đã ứng tác ra đoạn kết cho những câu chuyện cổ tích mà cái kết nguyên bản ông đã quên mất từ lâu; con Khỉ Đồng và tôi, qua năm tháng, được nghe đủ loại phiên bản về những cuộc hải hành của Sinbad, những chuyến phiêu lưu của Hatim Tai... nếu tôi lại bắt đầu, liệu tôi, cũng như ông, có kết thúc ở một chỗ khác?) Vậy thì: tôi phải tự bằng lòng với những mẩu vụn: như hàng thế kỷ trước tôi đã viết, bí quyết là lấp đầy những chỗ trống, dựa trên vài manh mối có sẵn. Hầu hết những điều trọng đại trong đời ta đều xảy ra vắng mặt ta; tôi đành bám vào ký ức về một cặp hồ sơ có ba chữ cái đầu tiết-lộ-bí-mật, mà tôi chỉ thoáng thấy một lần; và vào những mảnh vụn quá khứ còn sót lại, vạ vật trong các ngăn ký ức bị sục sạo của tôi như những chai thủy tinh vỡ trên bãi biển... Giống như những vụn ký ức, những mảnh báo vẫn lăn lóc khắp khu trại của giới ảo thuật trong làn gió nửa đêm lặng lẽ.
Những mảnh báo gió bay tìm tới lều của tôi để báo tin rằng cậu tôi, Mustapha Aziz, đã là nạn nhân của một nhóm sát thủ giấu mặt; tôi không buồn rơi nước mắt. Nhưng còn những mẩu thông tin khác; và từ đây, tôi phải dựng nên hiện thực.
Trên một mảnh báo (có mùi củ cải) tôi đọc thấy tin Thủ tướng Ấn Độ không đi đâu mà không có nhà chiêm tinh riêng của bà. Từ mảnh giấy ấy, tôi không chỉ phát hiện ra mùi củ cải; một cách bí hiểm, mũi tôi nhận thấy, một lần nữa, mùi của hiểm nguy cá nhân. Điều tôi buộc phải suy ra từ mùi hương cảnh báo này: thầy bói từng tiên tri về tôi; phải chăng cuối cùng chính thầy bói sẽ hủy hoại tôi? Phải chăng một mụ Góa phụ, bị ám ảnh về tinh tú, đã được giới chiêm tinh mách bảo về tiềm năng bí ẩn của bất kỳ đứa trẻ nào ra đời vào nửa đêm nhiều năm trước? Và phải chăng đây là lý do khiến một Công chức, chuyên gia về phả hệ, được yêu cầu truy tìm... lý do khiến ông ta nhìn tôi với ánh mắt khác lạ vào buổi sáng? Đấy, quý vị thấy chưa, các mảnh vụn đã bắt đầu khớp với nhau! Padma, chuyện đã rõ ràng chưa? Indira là Ấn Độ và Ẩn Độ là Indira... nhưng có lẽ nào bà ta chưa đọc bức thư của chính cha mình gửi cho một đứa trẻ nửa đêm, trong đó vị thế trung tâm được nâng tầm thành khẩu hiệu của bà ta bị phủ nhận; trong đó vai trò tấm-gương-của-đất-nước được gửi gắm lên tôi? Quý vị thấy chưa? Thấy chưa?... Còn nữa, còn những cứ chứng rõ ràng hơn: một mẩu báo khác của tờ Thời báo Ẩn Độ, trong đó hãng thông tấn của mụ Góa phụ trích dẫn mụ ta khẳng định “quyết tâm chiến đấu với âm mưu chống đối ăn sâu lan rộng và ngày càng lớn mạnh”. Xin thưa: mụ ta không nói về Janata Morcha! Không, bên cạnh nửa trắng, Tình trạng Khẩn cấp còn có nửa đen, và đây là bí mật đã bị che giấu quá lâu dưới lớp mặt nạ của những ngày nghẹt thở ấy: động cơ thực thụ nhất, sâu xa nhất ẩn đằng sau việc ban bố Tình trạng Khẩn cấp là gieo tang loạn đến mức đập tan, nghiền nát, bất khả vãn hồi lên đầu lũ trẻ nửa đêm. (Những chủ nhân của một Hội nghị đã, tất nhiên, giải thể nhiều năm trước; nhưng riêng khả năng tái hợp của chúng tôi cũng đủ để gây ra báo động đỏ.)
Các nhà chiêm tinh - tôi tin chắc là vậy - là người đưa ra cảnh báo; trong một cặp tài liệu màu đen dán nhãn M.C.C., những cái tên được thu thập từ những hồ sơ hiện tồn; nhưng không chỉ có vậy. Có cả những sự phản bội và những lời thú tội; có đầu gối và mũi - mũi, và cả đầu gối.
Những mẩu, những mảnh, những vụn: có vẻ như, ngay trước khi tỉnh dậy, với mùi nguy hiểm trong cánh mũi, tôi đã mơ thấy mình đang ngủ. Tôi tỉnh dậy, trong giấc mơ lạnh gáy bậc nhất ấy, và thấy một người lạ trong lều: một gã bộ dạng thi sĩ có mái tóc suôn dài trùm kín tai (nhưng rất thưa ở đỉnh). Phải: trong giấc ngủ cuối cùng trước sự-kiện-tôi-sắp-phải-miêu-tả, cái bóng của Nadir Khan đến thăm tôi, nhìn cái ống nhổ bạc khảm thanh kim thạch với vẻ khó hiểu, và hỏi hết sức kỳ quái, “Cậu ăn cắp cái này đúng không? - Bởi vì nếu không, tức là cậu - có nhẽ đâu thế? - là con của Mumtaz?” Và khi tôi thừa nhận, “Đúng, không phải ai khác, chính là tôi đây...” bóng-ma-trong-mơ của Nadir-Qasim liền đưa ra một lời cảnh báo: “Trốn đi. Gấp lắm rồi. Trốn mau khi còn kịp.”
Nadir, người trốn dưới thảm ở nhà ông tôi, đến khuyên tôi làm điều tương tự; nhưng đã quá muộn, quá muộn rồi, bởi giờ tôi đã tỉnh hẳn, và ngửi thấy mùi hiểm nguy như kèn trumpet om sòm trong mũi... sợ mà không biết vì sao, tôi nhổm dậy; và do tôi tưởng tượng ra hay quả thật Aadam Sinai đã mở to đôi mắt xanh mà nhìn vào mắt tôi đầy nghiêm trọng? Phải chăng mắt con tôi cũng ngập tràn lo lắng? Phải chăng đôi tai phấp phới cũng nghe thấy thứ cái mũi đã đánh hơi ra? Phải chảng cha và con đã có một sự giao tiếp không lời, vào thời điểm trước khi tất cả bắt đầu? Tôi đành phải để những câu hỏi ấy lơ lửng, không lời đáp; nhưng điều chắc chắn là vợ tôi Parvati, tức Laylah Sinai, cũng thức giấc mà hỏi, “Gì thế, mình? Anh bồn chồn gì thế?” - Và tôi, dù không thật sự hiểu vì sao: “Trốn đi; ở đây và đừng ra ngoài.”
Rồi tôi bước ra ngoài.
Lúc ấy có lẽ là buổi sáng, cho dù cái u ám của nửa đêm bất tận như sương mù bao trùm khắp ghetto... trong ánh sáng âm u của thời kỳ Khẩn cấp, tôi thấy lũ nhóc đang chơi ném tháp, và Picture Singh, ô xếp lại cặp dưới nách trái, đang đi tiểu vào tường Thánh đường Thứ Sáu; một nhà ảo thuật hói đầu đang tập cắm dao xuyên cổ thằng bé học việc lên mười, và một ảo thuật gia khác đã tìm thấy khán giả, và đang phù phép cho những trái bóng len to rơi ra từ nách người xem; trong khi ở một góc khác của ghetto, Chand Sahib người nhạc công đang luyện trumpet, đặt búp kèn cũ kỹ của chiếc trumpet móp méo vào cổ và chơi bằng cách vận động các cơ cổ họng... còn kia, kia là ba chị em uốn dẻo, đầu đội surahi đựng nước, đang trở về lều từ vòi nước độc nhất của khu trại... tóm lại, tất cả đều có vẻ bình thường. Tôi mắng thầm mình vì những giấc mơ và báo động của khứu giác; nhưng rồi nó bắt đầu.
Xe hòm và xe ủi tiến trước, rầm rập trên trục đường chính; chúng dừng lại đối diện ghetto của giới ảo thuật. Tiếng loa oang oang: “Chương trình làm đẹp đô thị... chiến dịch đã được chuẩn y của Trung ương đoàn Thanh niên Sanjay... chuẩn bị sơ tán ngay lập tức đến địa điểm mới... khu ổ chuột này là vết nhơ trên bộ mặt thành phố, không thể được dung dưỡng lâu hơn nữa... tất cả phải tuyệt đối phục tùng.” Và trong khi loa gọi om sòm, nhiều người từ xe hòm bước xuống: một mái lều sáng màu vội vã được dựng lên, có giường dã chiến và dụng cụ phẫu thuật... và lúc này từ trên xe trào xuống một dòng những nữ tú xuất thân quyền quý và du học nước ngoài ăn mặc sang trọng, và rồi một dòng sông thứ hai các nam thanh ăn mặc cũng bảnh chọe không kém: các tình nguyện viên, tình nguyện viên của Đoàn thanh niên Sanjay, đóng góp chút sức mọn cho xã hội... nhưng tôi chợt nhận ra: không, không phải tình nguyện viên, bởi vì tất cả đám thanh niên đều có mái tóc lượn sóng và đôi môi âm-thần-đàn-bà, còn phụ nữ cũng giống hệt nhau, đường nét trên mặt họ hoàn toàn trùng khớp với Menaka vợ của Sanjay, người được những mẩu báo miêu tả là một “mỹ nhân mảnh mai”, và từng làm người mẫu váy ngủ cho một công ty đệm... trong cảnh hỗn loạn của chương trình giải tỏa khu ổ chuột, một lần nữa tôi lại được chứng kiến vương triều đang cai trị Ấn Độ đã học được cách tự sao chép bản thân; nhưng khi ấy làm gì có thời gian để nghĩ, đội quân vô số môi-âm-thần và mỹ-nhân-mảnh-mai đang tóm lấy các ảo thuậc gia và ăn mày già, mọi người bị lôi xềnh xệch đến chỗ xe hòm, và giờ một tin đồn lan khắp khu trại của giới ảo thuật: “Bọn chúng đang thực hiện nasbandi - đang tiến hành triệt sản!” - Một tiếng kêu thứ hai: “Hãy cứu lấy đàn bà và trẻ con!” - Và một cuộc bạo động nổ ra, lũ trẻ vừa chơi ném tháp chuyển sang ném đá vào những kẻ xâm lăng thanh lịch, và đây là Picture Singh tập hợp các nhà ảo thuật về phía mình, múa tít cây dù thịnh nộ, từng là vật tạo lập hòa bình nhưng nay đã biến thành vũ khí, một ngọn thương đông ki sốt xập xòe, và các ảo thuật gia đã thành một phòng tuyến, bom xăng được hô biến hiện ra và ném đi, gạch được rút ra từ túi các thuật sĩ, không khí đặc quánh lại với tiếng gào thét và phi đạn và đội quân môi-âm-thần và mỹ-nhân-mảnh-mai buộc phải rút lui trước cơn thịnh nộ khốc liệt của các huyễn giả; còn kia là Picture Singh, dẫn đầu đợt xung phong về túp lều cắt ống dẫn tinh... Parvati tức Laylah, không nghe lời tôi, lúc này đang bên cạnh tôi nói, “Lạy Chúa, họ làm cái gì...”; và đúng lúc này một đợt công kích mới, dữ dội hơn được phát động về phía khu ổ chuột: quân đội được điều động đến đàn áp ảo thuật gia, đàn bà và trẻ con.
Một lần, ảo thuật gia nghệ nhân múa rối thần bài và thuật sĩ thôi miên đã kiêu hãnh diễu hành cùng đoàn quân chinh phục; nhưng giờ đây tất cả đã bị lãng quên, và những khẩu súng Nga được chĩa vào cư dân của ghetto. Cơ hội nào cho các phù thủy Cộng sản trước họng súng xã hội chủ nghĩa? Bọn họ, chúng tôi, đang bỏ chạy, tứ tung, Parvati và tôi lạc nhau khi bọn lính xung phong, tôi mất dấu Picture Singh, báng súng giáng xuống liên hồi, tôi thấy một trong ba chị em uốn dẻo ngã gục dưới cơn cuồng bạo của súng, mọi người bị túm tóc lôi về những cỗ xe hòm đang ngoác miệng chờ đợi; và tôi cũng bỏ chạy, nhưng quá muộn, vừa chạy vừa ngoái cổ nhìn, vấp vào chai Dalda thùng rỗng và bao tải bị các ảo thuật gia kinh hoàng vứt lại, và khi ngoái đầu lại giữa đêm tối Khẩn cấp mịt mù tôi bỗng thấy tất cả những thứ này chỉ là một màn khói hỏa mù, một chuyện bên lề, bởi vì đang vùn vụt lao đến, xuyên qua cảnh hỗn loạn của cuộc bạo động, là một nhân vật thần thoại, hóa thân của vận mệnh và hủy diệt: Thiếu tá Shiva gia nhập vòng chiến, và hắn chỉ lùng tìm tôi. Sau lưng, khi tôi bỏ chạy, đôi đầu gối báo hiệu diệt vong của tôi đang đuổi đến.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian